Khoa cử Giáo_dục_khoa_cử_thời_Hồ

Chế độ khoa cử

Từ năm 1396 dưới thời Trần Thuận Tông, lệ thi 4 trường được Hồ Quý Ly quy định lại so với quy chế trước đó, bỏ cách thi ám tả cổ văn mà định ra tứ trường văn thể gồm[7]:

Trường 1: thi kinh nghĩaTrường 2: thi thơ phúTrường 3: thi chế, chiếu, biểuTrường 4: thi văn sách

Đến tháng 2 năm 1404, Hồ Hán Thương quy định cách thức thi cử nhân gồm thi Hương, thi ở Bộ Lễ, thi Hội (đỗ Thái học sinh). Các đợt thi đều tổ chức vào tháng 8 hàng năm. Ai đỗ cấp nào sẽ được hưởng chế độ ưu đãi tùy theo, như đỗ thi Hương được miễn lao dịch, đỗ ở Bộ Lễ thì miễn đi lính[6].

Phép thi của nhà Hồ bắt chước theo lối văn thể của nhà Nguyên, nhưng chia ra làm 4 kỳ, có thêm kỳ thi viết chữ và tính toán, thành ra 5 kỳ, nhưng mới thực hiện tại kỳ thi ở Bộ Lễ thì xảy ra chiến tranh nên không thực hiện được nữa. Đây là lần đầu tiên môn toán được đưa vào nội dung thi chính thức[6]

Những đối tượng không được đi thi gồm quân nhân, phường chèo và người có tội.

Tuy coi trọng chữ Nôm nhưng Hồ Quý Ly mới dừng lại ở việc dịch sách vở chữ Hán ra chữ Nôm và viết sách chữ Nôm, còn việc thi cử vẫn thực hiện bằng chữ Hán[3].

Các khoa thi

Nhà Hồ chỉ tồn tại 7 năm, trong thời gian đó đã tổ chức 2 kỳ thi, lấy gần 200 người đỗ, trong đó có 1 trạng nguyên[8].

Tháng 8, Canh Thìn, năm Thánh Nguyên thứ 1 (1400), đời Hồ Quý Ly tổ chức kỳ thi đầu tiên, lấy Lưu Thúc Kiệm đỗ trạng nguyên, cùng 20 người khác đỗ thái học sinh, trong đó có Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành v.v.[5]. Đầu đề bài phú là "Linh kim tàng" [9]. Lưu Thúc Kiệm trở thành trạng nguyên duy nhất dưới thời Hồ[8].

Tháng 7 năm 1405, Hồ Hán Thương tổ chức kỳ thi ở Bộ Lễ, lấy 170 người thi đỗ, gồm có Hồ Ngạn Thần, Lê Củng Thần sung làm thái học sinh lý hành[10]; Cù Xương Triều 6 người được sung làm học sinh ở Tư Thiện đường (Tư Thiện đường nguyên là tên nhà học của Thái tử nhà Trần).